jeudi 29 décembre 2011

Le temps

Le temps passe
L’homme reste
Dans sa demeure
Des heures sans cesse,
La tête tourbillonnant
Les yeux rougis de colère.

Le temps passe
L’homme recherche
Dans ses mémoires
Une certaine perche
Qui sert d’appui
Sous la pluie mauvaise.

Le temps passe
L’homme regarde
Dans ses pensées
Des idées monter la garde
Dans de longues nuits
Empêchant de grands pas.

Le temps passe
La plume se sèche
Sur les feuilles jaunies.
Chante la chevêche
D’une longue haleine
Quel mauvais augure ?

Le temps passe
Qui peut saisir
L’enthousiasme
Et le plaisir
Des mains tremblantes
Des pieds chancelant dans le vide ?

Le temps passe
Qui rend possible
L’idéal de l’éveil de soi
Par les paroles inaudibles
Cachées derrière l’espace
De la haine, de l’amour, de la pitié ?

samedi 10 décembre 2011

Khóc Thiên nga

Lệ sầu thương tiếc bóng Thiên nga
Khung trời xanh biếc một thời xa
Khúc khải hoàn ca, ôi đã tắt !
Xuôi giòng ký ức nhịp cánh trường.

Thiên nga ơi, một thời ru mộng
Đã ban tặng muôn nẻo nhân gian
Tiếng hòa bình vươn mình kiêu hãnh
Sau hoàng hôn-đêm dài se lạnh.

Vụt tắt rồi ! tiếng hót thanh cao.
Giữa muôn chiều cô liêu khoảng lặng
Ta miên man mộng ước tìm về
Rơi hàng lệ tiếc đời Thiên nga.

samedi 3 décembre 2011

Không lời

Nếu ta ôm ấp một ước mơ
Mơ ước vụt xa trước vòng tay mở
Đưa vội bàn tay nắm chặt không gian,
Ôm trọn trong lòng những biến tan.
Ôi! điên cuồng hay lý trí
Có nghĩa gì cho lời biện minh?
Ôi! dày đặc, dày đặc và dày đặc
Những ánh mắt trừng trừng
Xuyên thấu không gian
Đâm qua kẽ hở cõi lòng biến tan,
Rọi sâu, xoáy muôn chiều lý lẽ.
Ta mở mắt
Dương cánh tay tắt lịm
Ngập ngừng trong nấc thở cuối cùng,
Thế giới biến tan!

Độc hành

Nàng thơ ơi! em vẫn còn hiện hữu

Giữa những ngày thu sương mù che phủ,

Trong hư không cho vô vọng mong chờ,

Nơi huyền siêu xa xôi và câm nín?

Tuổi ngây thơ lặng lẽ trong giấc mộng

Oán hờn em xóa cả hình bóng ta.

dimanche 20 novembre 2011

LỜI CUỐI NGÀY

Lời cuối ngày


Tôi viết những dòng này mang theo bao nỗi nhớ
những ngày xưa, những ngày yêu thương.
Tôi viết những dòng này với bao điều vấn vương
một thời thơ ấu tuổi đến trường.
Những con chữ nhảy múa, những con chữ nhiệm mầu
đưa tôi qua tuổi ngọc trào dâng khát vọng
Dắt tôi vào thế giới trải nghiệm đời mênh mông.

Tôi viết những dòng này cho bao nhiêu trái tim,
cho những kiếp đời hằn vết âu lo,
cho những hình hài héo mỏi đôi vai luôn trĩu nặng,
trên đôi chân mòn những gót giày.

Tôi viết những dòng này cho những cõi lòng mê say
để hiến dâng đời mình giữa những đổi thay,
để chắp những đôi cánh mềm mại cho ngày dài thử thách.

Tôi tặng những dòng này cho những ánh mắt
bao thăng trầm vẫn rạng ngời long lanh,
giọt lệ sau bờ môi rực rỡ,
toan lo một cuộc đời sương khói mong manh.

Tôi trao những dòng này trong tin yêu nhắn gửi
lớp tinh hoa vươn mình vượt sóng phù du
đời tươi đẹp nơi bóng hình rợp mát,
tỏa ngát hành trang muôn thế hệ.

Tôi dâng những dòng này xin kính chúc vạn tuế
cho tiên sinh, đồng bạn và muôn kiếp xa
vững lái con thuyền chập chùng nơi đất lạ,
bến bờ vẫy gọi trong ngàn vạn con tim.


Biên Hòa, ngày 20-11-2011

dimanche 6 novembre 2011

Hà Nội phố-Phan Vũ-mc Phạm Thanh Tùng.wmv

Po-ëte-en-qu-ête-en-moi

Po-ëte-en-qu-ête-en-moi

Caressez-moi de vos mains, de vos doigts et de votre bouche,
quand et où vous voulez :
car l’espace est infini et le temps indéterminé,
qui impliquent ma beauté, bannissant tous les préjugés.

Appelez-moi le pré-mot, l’im-mot, l’a-mot, le mot ou les maux...
pour vous servir intemporellement
avec les mélodies artificielle, réjouie, mélancolique, langoureuse... !

Embrassez-moi intimement dans votre manoir bien fermé !
Non ! Déclenchez d’abord vos réflexions en me regardant tendrement
avant de vous lancer sur moi comme un serpent !

Serait-il difficile de faire sortir de la résine transparente
pour me coller à votre essence ?
Soyez patient et continuez : je suis avide de douleur

Qui se cacherait confusément dans le bonheur, dans l’honneur
et dans la peur de tous ;
qui nous bercerait dans nos passions, nos désirs et votre fierté honteuse ;
qui vous inspirerait en me recourant pour être témoin
qui vous empêcherait d’aller plus loin !

Revenez sur moi, châtiez-moi ! Je vous exciterai intensément.
Prenez garde pourtant aux pièges vous amenant à une autre extrémité,
à la chute au sans-fond, dans le vide des non-sens !

Réchauffez mon cœur, allumez mes consonnes et voyelles,
Accompagnées de signes énigmatiques qui déchiffrent
l’ensemble de mes veines solides !

Dévorez mes voix !
Coupez les nœuds de ma jupe conventionnelle pour enfoncer votre plume !
Déchirez en plus le voile qui couvre faussement
la sordidité discursive et qui entrave votre accessibilité
à la lucidité, à une autre réalité !

Me voici béant,
accueillant,
confident,
transparent,
gracieux,
expressif
sensible,
communicatif,
intelligent
...

Je serais votre espérance dans ce monde accablant.



P.V.Quang. Le 6 novembre 2011

samedi 5 novembre 2011

Đường em đi

Đường xưa em mơ ước,
Phố phường dài miên man.
Nhịp đều trong sương khói
Em đếm dòng thời gian.

Đường xưa em mơ ước,
Tư lự với yêu thương.
Phảng phất thấy dáng hình
Rong dài trong vấn vương.

Đường xưa em mơ ước,
Man mác trong chiều mưa.
Thấm hàng mi giọt lệ,
Em tiếc đời say sưa.

Đường xưa em mơ ước,
Dấu in mái trường yêu
Trầm ngâm trong nắng hạ,
Gẫm một đời cô liêu.

Đường xưa em mơ ước,
Giữa đám người thương quen,
Bè bạn cho hy vọng
Tuổi xuân có bon chen ?

Đường xưa em mơ ước
Nơi huyền nhiệm chốn xa.
Khép mình trong cô tịch
Thấu chuông chùa ngân nga

Đường xưa em mơ ước
Trở lại đời phố hoa
Áo dài trong nắng mới
Thương nhớ thời tuổi hoa.

Đường xưa em mơ ước
Đâu những ngày xôn xao?
Thời gian đi lối mòn
Đã xóa nhòa thương đau?

Prix Goncourt 2011: L'Art français de la guerre



C'est Alexis Jenni qui est consacré par le Prix Goncourt pour son premier roman, L'Art français de la guerre (Gallimard).

Le jury du Goncourt l'a préférée aux trois autres prétendants: Sorj Chalandon (Retour à Killybegs) - déjà lauréat du Grand prix du roman de l'Académie française -, Lyonel Trouillot (La belle amour humaine) et Carole Martinez (Du Domaine des murmures, Gallimard). Jenni l'emporte par cinq voix contre trois à Carole Martinez, sa grande rivale malheureuse, et les deux autres concurrents n'ont réuni aucun suffrage. De leur côté, les internautes de LEXPRESS.fr avaient choisi avec une petite voix d'avance Carole Martinez (5 voix), les trois autres prétendants en récoltant chacun 4.


L'Art français de la guerre d'Alexis Jenni livre une vision polémique de l'histoire de France - la Seconde Guerre mondiale, l'Indochine, l'Algérie... - à travers les souvenirs d'un ancien soldat devenu peintre, Victorien Salagnon. Jenni entend montrer, avec son roman, que la façon dont la France affronte les conflits armés est caractérisée par le donquichottisme et le peu d'efficacité


Révélation de cette rentrée littéraire, Alexis Jenni, professeur de biologie âgé de 48 ans, est toujours en lice pour le Médicis et le Femina.
Le romancier succède ainsi à Michel Houellebecq, lauréat du prix Goncourt l'an dernier avec La Carte et le territoire (Flammarion).
Annoncé simultanément, Le prix Renaudot 2011 va à Emmanuel Carrère pour Limonov.











(Source:

dimanche 30 octobre 2011



Hạ vắng

Chiều hạ vắng ai mình ta bước,
Đường mòn theo lối hàng cây đưa,
Băng ghế cô đơn tìm mộng ước,
Màu kỷ niệm trên những dấu chân.

Chiều hạ vắng anh lòng vấn vương,
Em vẫn tin, vững dạ can trường.
Anh về có mang theo hoài niệm:
Giáng hình nhỏ trong nhịp miên man?

Chiều hạ vắng anh mình em bước,
Chút bâng khuông lặng lẽ chơi vơi,
Hoàng hôn tím lịm dưới chân đồi,
Em về thắp sáng vầng yêu thương.

Chiều hạ vắng nhau ta hẹn ước :
Tình thu sẽ tới ghi dấu thương,
Thu tình êm ái rọi lối đường.
Chờ anh nhé, chờ nơi cố hương !

vendredi 28 octobre 2011

L’homme et ses reflets

Tiraillé sans arrêt entre cachot profond,
Et azur infini avec son cachet preste,
Cet éminent espace où aucun lien terrestre
Ne se retiendra entre deux bornes comme un pont,

L’homme bien triste errait dans ses pensées rossardes,
Dans ses réflexions bêtement embrouillées,
Ses sages sentiments constamment exilés,
Ses rêveries battues rudement en mansarde,

Comme un cygne égaré en plein désert troublant,
Se portait lourdement sur ses ailes bâtardes,
Toujours embarrassé du monde nonchalant.

Ainsi entortillé aux regards des cafards
Insensibles au langage d’humanité,
L’homme se voit-il donc vivre sans dignité ?

dimanche 23 octobre 2011

Au crépuscule



Je marche
Menaçant
De me renverser
Au fil du temps,
À la recherche
De l’existence.

Je marche
Fluctuant
Dans mes souffles
À la bouffée de vent,
En quête
De résistance.

Me heurtant
À la grille illusoire,
Sur la voie déviante,
Je repousse
Une voix dérisoire
À la malchance.

J’entends
À l’horizon lointain
D’autres voix haletantes,
Par secousse,
Visant en vain
Dans ce manoir pourrissant.
...
...
...

vendredi 21 octobre 2011

Sonnet d'enfance




Sonnet d'enfance




Intérieur, j’ai vécu des temps si précaires
Où le lever du soleil était négligent
Et où régnait la froideur d’un foyer flottant,
Triomphait l’image de ses êtres éphémères.

Commençaient des jours gris et des nuits sans idées,
Les cieux immenses couvraient la laide terre,
Pesaient lourdement sur les pensées tributaires
Des terribles intempéries et du monde cliché.

C’est également de là que je voulais voir,
Aux yeux d’un enfant de la peine avant choisie,
Se répandre partout des codes bien établis,

Qui me conduisaient, évitant des territoires
Rocailleux et arides, à l’apprentissage
Du monde – vaste néant absent de messages.
En cadence solitaire


Les chemins frénétiques
Nous amènent
À travers
d'immenses
Espaces
Vers un bagne métaphysique.
Ce lieu mélancolique
Enterre sous les pas indifférents
Maintes figures d'élite,
Coupe brusquement
Les derniers essoufflements,
Le reste de l'espoir de sang héroïque.
En majeure cadence,
En tangage, on marche, danse,
Tombe aux enfers.
Au rythme monotone
On préfère
Une fracture complète.
Une belle coupure
Fait naître un futur à claquettes.

lundi 10 octobre 2011

Spectre chagrin


Spectre chagrin

Se cache derrière le miroir
Le fantasmatique spectre chagrin,
Qui s’insinuait dans les veines noires,
Guillotinait en morceaux notre corps sain.

Ce mal du crépuscule d’une époque
Reverse l’ordre historique malsain
Où règnent ces voix des entérocoques,
Des fantômes du mirage malin.

Absurde, non-sens, stupide, crétin,
Ce réel transcendant épicurien
Forme une troupe d’épieurs vilains
Comme les ombres du vrai démon-chien.

Ô, vauriens que vous êtes pour toujours !
Où est le discours de l’amour humain ?
Cessez le jeu de cohue d’alentours !
Rendez son langage au lendemain !

Vienne le nouvel âge de la paix,
De la tranquillité du seuil lyrique
Où le verbe s’accorde bien au fait,
Le sujet à ses paroles civiques.

dimanche 9 octobre 2011

Phố đời

Mắt dõi những bàn chân rảo bước,
Nặng trĩu đôi vai nặng cõi lòng
Phố kia tàn úa lớp sinh linh
Muôn hồn lay lắt, xác vô minh.
U buồn phủ khuất bình minh rọi,
Triền miên sương khói vạn kiếp đời.

Trôi giấc mơ tuổi thơ bi thương,
Trôi giòng đời chập chùng ai oán.
Tháng năm dài ai vọng tiếng than
Chốn hư không mênh mông tăm tối
Tìm đâu tiếng nói cho tình thương?
Tìm trong thực thể một con đường.

samedi 8 octobre 2011

On est excentrique





Le coeur exilé sur place
Cède sa souveraineté à la rapacité
Qui ronge toutes les capacités,
Qui rend l'homme lâche.

Le coeur fixe ses yeux
Pour regarder au fond,
Éclairant le néant grognon,
Clignotant dans sa lueur.

Éphémère, ce monde mythique
Cherche refuge dans quel coin
Où personne, de près ou de loin,
Ne voit plus personne pudique?

Intolérant, cet univers inhumain
Englobe l'individu à coeur dûr,
Enferme le collectif moins sûr,
Déchire la jeunesse entre ses mains.

lundi 3 octobre 2011

Le monde moche

À l’ombre,
Les feuilles d’automne
Tombent.
Sonnent les heures.
S’écoule le temps,
Les âmes errantes
Se dépossèdent
Du monde
Désacralisé,
Sordide.

Aride,
Ce monde
De la débauche
Se confond
Avec
Une tombe
Froide,
Moche.

vendredi 30 septembre 2011

Pleurs sans larmes

"Một lần mình khóc, lần người khóc
Sống thác đôi lần, giọt lệ rơi"

La fin d'une vie
Pour une double réalité.
Partir, encore une, partir!
Tour à tour, on fait un cercle
Dont l'axe tourne sans cesse,
Amenant les âmes au firmament céleste.
Tourner, encore une, tourner!
On s'enroule dans un destin à son gré.
Quoi? Quel est ce gris destin
Qui se couche au fond du gouffre?
Un gouffre et toujours ce grouffre
Guette la vie pour semer la peur,
Étant avide de sang des vivants tordus.


Le bonjour du passé et aujourd'hui
On dit adieu, circulairement!
On voit bel et bien cette métamorphose
Dans un cercle funèbre et franc.


Bien Hoa, le 30 septembre 2011

Pour le moment ambivalent





samedi 17 septembre 2011

Chiều tím




Em ơi, Toulouse mang ngàn hoa tím
Màu hy vọng của những con tim
Giòng Canal-Midi ngả bóng
Chiều thu về chớm dậy hương xưa.

Từng con phố nhỏ những bước chân về.
Đây Esquirol, Capitole bến đậu.
Buổi chợ trời tiếng chuông ngân thổn thức.
Ai về mang nặng một nỗi thương ?

Em ơi, vườn Bách Thảo Royal mở lối,
Đưa bóng người theo tán lá vàng rơi.
Bình yên bên thảm hoa tượng đá
Ai dõi về một chốn trời xa ?

Đây bức tường hồng giữa chiều se lạnh
Có xua tan màu xám tương tư ?
Gạch đỏ, ngói son, lòng son sắc !
Ai gửi gió về niềm nhớ mong ?





lundi 20 juin 2011

LA MISÈRE-MA TÈRRE



La misère-ma Terre


Cette belle fresque multicolore,
Dit-on alors, un Vietnam du temps fort!
Mais de qui venait telle couleur morte,
Pour cette peinture absente d'aurore?

Est-ce le temps fort ou le temps maudit?
La belle peinture ou l'anesthésie?
Dépourvu d'un esprit, privé d'un cœur,
Ce tableau n'est fait que de vraies horreurs.

Au malheur se mêlait le goût honteux
Dont perdent la vue ces folles terreurs
Qui sèment tant de crises populaires,
Qui amènent nos enfants aux enfers

Qui tuent chaque jour nos mères et pères
Dans un corps sec nourri de riz amer,
Dans un cœur épuisé d'aimer la vie
Dans un esprit soucieux jour et nuit.

Ô! Mon pays, ma Terre de ce temps maudit!
Je songe à un passé qui est fini,
Rêve d'une ère balayée de peur,
Et d'une vie colorée de bonheur.








Bien Hoa, le 21 juin 2011
Pham Van Quang

mardi 14 juin 2011

Intellectuel

Le terme intellectuel provient du latin intellectualis (« qui se rapporte à l’intelligence, intellectuel ») apparenté à intellĭgĕre (« discerner », « saisir », « comprendre »).
L’adjectif devient nom sous la plume de Clémenceau à l’occasion de l’affaire Dreyfus . Sous le titre « Manifeste des intellectuels », son journal L’Aurore publie le 14 janvier 1898 le texte suivant : « Les soussignés protestants contre la violation des formes juridiques au procès de 1894 et contre les mystères qui ont entouré l’affaire Esterhazy, persistent à demander la révision. » Suit une liste de noms, au premier des rangs figurent Emile Zola et Anatole France. Puis Marcel Proust, Gabriel Monod, Léon Blum, Lucien Herr… Le mot est ensuite repris par Barrès pour tourner en dérision les écrivains, professeurs et savants dreyfusards.
Après l’Affaire, l’usage du substantif " intellectuel " se généralise pour désigner des personnes s’engageant dans la sphère publique pour défendre des valeurs, en particulier dans les questions morales et politiques, en prenant appui sur leur notoriété.
La figure de l’intellectuel moderne naît ainsi en France au tournant du 20ème.siècle. Dès lors, elle accompagne les grands moments de l’histoire du pays. On signe des manifestes, des pétitions, on publie des revues, on organise des manifestations, des meetings ou des comités de soutien. Mounier dans la revue Esprit, Sartre dans les Temps Modernes, Mauriac dans son Bloc-notes de France-Observateur, chacun analyse, jauge et juge les événements. On soutient les Républicains espagnols contre Franco, on s’oppose aux ligues fascisantes des années 1930. Vichy et l’occupation allemande troublent les repères et certains comme Brasillach choisissent la collaboration. Après 1945, on s’insurge contre les guerres coloniales en Indochine et surtout en Algérie. On s’inquiète de la menace nucléaire. En 1950, Frédéric Joliot-Curie, Louis Aragon, Simone Signoret, Marcel Carné et bien d’autres signent l’appel de Stockholm, pétition d’inspiration communiste contre l’armement nucléaire. Sartre se rapproche du P.C.F tandis que Raymond Aron fustige le totalitarisme stalinien. En 1951, Picasso peint Massacre en Corée, toile commandée par le P.C.F pour dénoncer l’impérialisme américain en Asie. Dès 1955, la revue Esprit s’indigne devant la torture pratiquée par l’armée française en Algérie. Simone de Beauvoir s’engage dans le féminisme et se lie avec les porteurs de valises du F.L.N. En 1961, on signe le manifeste des 121 pour la fin de la guerre en Algérie. L’appartement de Sartre est plastiqué par l’O.A.S. Malraux entreprend la démocratisation de la culture aux côtés du général de Gaulle. Mai 68 arrive :Sartre tracte devant l’usine Renault de Billancourt. On s’oppose à la guerre au Vietnam. Puis, la chute du communisme surgit à la fin des années 1980, la guerre en Bosnie, les sans-papiers …la liste est longue des communiqués de protestation, des pétitions, des comités et des réunions. Autant de mobilisations qui ont contribué et participé à la construction de l’identité nationale tout au long du 20ème siècle.
Ainsi, à travers le monde, la France apparaît souvent comme la terre par excellence des intellectuels. Parler d’intellectuels français en Allemagne ou aux Etats-Unis , c’est presque faire un pléonasme. Être un intellectuel serait un « sport français ». Cela reste à voir, mais cela conforte un moment certains stéréotypes: les « débats de coqs » à la télévision française, les querelles éternelles, les indignations, les déclarations, tout ce qui fait dire aux étrangers que les Français parlent un peu pour ne rien dire et peut-être pour le plaisir de débattre. Quoiqu’il en soit et quelque soit l’influence réelle des intellectuels français, cette singularité hexagonale semble aujourd’hui menacée. Le poids des intellectuels français semble s’éroder. À intervalles réguliers, leur fin est annoncée. En 2000, l'historien Pierre Nora, en tête du numéro qui fêtait les vingt ans de la revue Le Débat, intitulait son article «Adieu aux intellectuels?». Régis Debray lui aussi diagnostique leur fin prochaine. Les intellectuels français, dit-on, n'ont pas fait ce qu'ils auraient dû faire. Ils se sont mal conduits, se sont trompés, ils ont trahi. Et ils vont disparaître. Il existe selon les époques de notables variantes, mais la mélodie demeure semblable. Les intellectuels ne seraient plus qu'une horde de coquins, suffisants et vaniteux, aveuglés et amnésiques. Dreyfusards hier, profiteurs aujourd'hui. La République des lettres aurait laissé place à une République bananière où l'on se dispute des parts de gâteau.
Cette extinction, toujours jugée imminente, ne s'est jamais produite. Depuis qu'en France des écrivains se sont mêlés de vérité, de justice et de politique, de Voltaire à Sartre en passant par Zola, il y a toujours eu des intellectuels pour continuer à défendre le faible face au puissant, la minorité face à la majorité, les droits de l’homme face à la barbarie et pour mettre la raison ou la morale universelle au dessus des intérêts immédiats de la communauté nationale.
Comme le souligne le titre d’un article récent de C.Prochasson1, les intellectuels français sont, à bien des égards, l’âme de la nation française.

Par Pierre Berlan, Professeur d'histoire-géographie au lycée Prévert de Saint-Christol-lès-Alès

1 Christophe Prochasson,, « L’intellectuel, cette âme de la nation » dans Cahiers français, 342, janvier-février 2008, p.58-62.

lundi 30 mai 2011

VIETNAM

Viet-Nam (« Le Mot »)

C'est à ce mot qu’il y a dix-huit ans
Moururent treize personnes dans une petite ville.
Seulement pour que sonne haut un doux mot
Elles tombèrent sur l'échafaud de fortune
Dressé devant la force rangée et le triste silence
Des foules sans nom, victimes, complices et bourreaux.

Le sang chaque année repeint la bannière
Sous laquelle fleurissent l'espérance et la colère
D'enfants écartelés entre une sagesse et la liberté
La chaleur du sang éclate les vaisseaux et les cœurs,
La vue du sang échauffe les cervelles sœurs.
Destins des têtes dures, cruel destin, têtes brisées !

Montagnes blanchies d'os, fleuves rougis, broderies de style
Allongent la tapisserie dont les menus fils
Défient les ravages du temps comme les affronts des hommes.
Dans la nuit de maints siècles brillait ce tracé de feu
Envers et contre toutes malchances et maldonnes.
Les sacrifices sans fin ont de quoi plaire aux dieux.


CUNG GIU NGUYEN

VIETNAM INVINCIBLE ! INVINCIBLE! INVINCIBLE!

vendredi 27 mai 2011

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO

ĐẤT NƯỚC DO ĐÓ ĐƯỢC YÊN
NON SÔNG DO ĐÓ ĐỔI MỚI
......................
ĐỂ MỞ NỀN HÒA BÌNH MUÔN THUỞ
ĐỂ RỬA MỐI TỦI NHỤC NGÀN THU

(Nguyễn Trãi)

AINSI LE PAYS EST EN SÉCURITÉ
AINSI LE PAYS EST EN PROGRÈS
...........................
POUR INAUGURER L'ÈRE DE PAIX ÉTERNELLE
POUR NOUS LAVER DU DÉSHONNEUR DES SIÈCLES.

mardi 15 février 2011

PHAM DUY KHIÊM-DISCOURS D'USAGE


DISCOURS
D'USAGE
destiné à la Séance Traditionnelle de fin d'année
de l'Ecole Alsacienne placée sous la
Présidence de M. le Général d'Armée KOENIGM
(27 juin 1964)





Mon Général,
Mesdames et Messieurs,
Permettez-moi de m'adresser à nos enfants.
Mes jeunes amis,


Nombreux sont ceux d'entre vous qui n'ont jamais été mes élèves, depuis quatre ans que j'enseigne à l'Ecole. Mais vous m'avez vu me faufiler parmi vous dans ces cours, ces couloirs et ces escaliers, trop étroits pour notre nombre, et, en me frôlant ou me heurtant, vous avez pu croire, d'après mon aspect physique, que je suis le professeur de chinois de l'Ecole. Erreur je ne suis pas le professeur de chinois de l'Ecole, bien que j'aie l'air passablement chinois. Et je ne suis pas non plus un Chinois qui enseignerait, à l'Ecole, d'autres matières que la langue chinoise.
Je m'empresse d'ajouter qu'il n'y a nul déshonneur à appartenir à la grande Chine. Ce n'est pas seulement parce que le gouvernement francais a reconnu le gouvernement de la Chine continentale et qu'un restaurant officiellement chinois s'est ouvert à Paris avec un maitre queux arrivé directement de Pékin. Mais dans mon pays -- qui est le Viet-Nam, comme il s'appelle maintenant après avoir recu des noms divers au cours de l'histoire -- nous connaissons la Chine depuis bien plus longtemps, depuis toujours au fond puisque, par la grâce du Ciel, elle est notre voisine. Nous avons même eu l'honneur, à plusieurs reprises au cours de deux millénaires, d'être colonisés par elle, et s'il en est résulté quelque désagrément pour nous, nous avons aussi recu d'elle des lecons nombreuses et durables. C'est ainsi que même le long des siècles durant lesquels nos ancêtres avaient réussi à chasser du sol national les éternels visiteurs du nord, jamais nous n'avons cessé d'être imprégnés de culture chinoise. À l'heure actuelle, après les bouleversements les plus profonds, il reste dans nos coutumes, dans nos croyances, dans notre langue, dans notre sang même, une partie non régligeable qui est chinoise. Mon propre nom est un mot chinois... Ce n'est pas tout ; vous savez que le Viet-Nam, après avoir été une colonie francaise pendant environ trois quarts de siècle, a été coupé en deux troncons par les accords de Genève, il y a dix ans, peu après la bataille de Dien Bien Phu sur laquelle on a abondamment écrit à Paris même et dont les images, prêtées par le gouvernement du Vietnam du Nord, ont récemment pénétré jusque dans l'intimité de vos foyers, sur le petit écran. Depuis dix ans, après cette coupure nécessaire, parait-il, au repos du monde, la moitié Nord est entre les mains de communistes, qui sont communistes comme les dirigeants de la Chine continentale que la France vient de reconnattre. Si bien que la moitié de mon pays est déjà rentrée dans la zone d'influence du Céleste Empire, ne disons pas : sous son joug, elle est devenue un satellite de la Chine communiste, ou si l'on veut : redevenue, sous un mode nouveau, le même vassal qu'autrefois de la Chine éternelle. Comprenez que la crainte puisse être naturelle pour certains, de voir la grande voisine mettre la main sur le Viet-Nam tout entier avec les pays limitrophes -- sans parler d'autres ambitions encore plus vastes et non moins naturelles.
Mais laissons l'avenir et revenons un peu an arrière, vers l'an passé récent, celui où il y avait encore une Indochine francaise et un Empire francais taint en rose sur les cartes qu'on mettait, sous les yeux de vos ainés, un temps que j'ai vécu là-bas, au milieu de mes compatriotes, à côté d'un certain nombre de Francais, sous le gouvernement de Francais. Peut-être ne vous serait-il pas indifferent d'apprendre comment, sans être Chinois tout en l'étant, nous pouvons être autre chose encore, et notamment un peu francais, apparemment plus que mes compatriotes ne veulent le reconnaitre.
Né à Hanoi, dans la rue qui conduisait du Fleuve Rouge au Petit Lac, non loin de ce Petit Lac dont bien des Francais eux-mêmes gardent un souvenir délicat, j'ai commencé à apprendre le francais dans une école ''franco-annamite'' c'est-à-dire une école pour enfants indigènes comme moi, avec des maitres indigènes formés directement ou indirectement par des Francais. Pour vous donner une idée de cette époque, je vais vous rapporter une histoire amusante : devenue proverbiale, mais qui est au fond injuste pour l'enseignement dispensé dans les colonies d'autrefois. Elle tient en quatre mots : ''Nos ancêtres les Gaulois''. On trouvait en Indochine comme en Afrique, les mêmes livres qu'en France, ce qui n'était que natural dans les établissements destinés aux enfants francais, où des enfants de bourgeois indigènes étaient aussi admis. Il a pu arriver qu'en certains endroits, faute d'imprimerie locale et de manuels adaptés, on eut recours, dans les mêmes livres. La phrase, dans la bouche de négrillons ou de petits jaunes, voilà qui était apparu absurde, voire scandaleux aux yeux des Francais de France. En réalité, ce n'était qu'un faux scandale. J'ignore s'il y a jamais eu des fils de sorciers noirs qui se sent crus descendants de druides gaulois, mais je sais que si par hasard on m'avait fait apprendre par coeur une telle phrase, il m'eut été impossible de m'y tromper. Car, dès l'âge où je commencais à feuilleter les livres francais, avant même de bien les comprendre, j'étais déjà habitué à séparer les deux races, ne fut-ce que par leur aspect physique : d'un côté mes compatriotes, de l'autre les ''occidentaux'' représentés notamment par les quelques agents de police francais qu'on voyait dans les rues de Hanoi, et aussi par le directeur à la barbe bien fournie qui traversait parfois la cour du Collège du Protectorat où je faisais mes études primaires. D'autre part, il y a cinquante ans, les livres de classes étaient déjà illustrés -- moins richement que maintenant, mais ils l'étaient -- et j'ai encore dans les yeux, à un demi-siècle de distance, la gravure représentant Vercingétorix devant Jules César : après avoir jeté ses armes, le chef gaulois se tenait droit, les bras croisés sur sa robuste poitrine. Or, l'enfant que j'étais avait toujours imaginé ses propres ancêtres sous l'aspect d'hommes semblables à ses compatriotes adultes, lesquels avaient tous le poil rare, parmi lesquels seuls les plus vénérables étaient pourvus d'une bartiche clairsemée, si bien qu'il ne m'était guère possible de croire, à supposer qu'on eut cherché à me l'enseigner, que mes ancêtres pussent jamais posséder les belles moustaches de Vercingétorix et sa crinière ondulée.
Je n'ai pas voulu seulement vous amuser. Il faut comprendre que la raison était profonde qui préservait nos jeunes esprits de toute confusion. Dans la colonie francaise qu'était mon pays -- et la situation a du être la même dans toutes les colonies du globe -- à aucun moment il ne m'a été donné de voir l'ensemble des Francais traiter l'ensemble de mes compatriotes sur un pied d'égalité, comme des hommes semblables à eux, appartenant à la même race ou a une race de même niveau que la leur, si bien que je n'ai jamais pu imaginer pour les uns et pour les autres, Francais et Annamites, une communauté quelconque, loin de pouvoir leur attribuer les mêmes ancêtres. Je ne dis pas qu'on ne trouvait point, parmi les coloniaux, des exceptions; j'ai connu -- nous avons tous connu -- des Francais qui étaient des pères ou des frères pour nous, mais ces Francais là ne pouvaient empêcher que leur condition et la nôtre ne fussent entièrement différentes; surtout ils ne pouvaient empêcher leurs compatriotes de nous regarder d'autre manière qu'eux, de se montrer, certains du moins, méprisants ou même inhumains impunément. D'ailleurs les ''bons Francais'' eux-mêmes ne savaient pas tout ce que nous pensions et sentions, loin de mesurer nos souffrances, que quelques-uns seuls soupconnaient. Nous ne sommes pas bavards -- et c'est peut-être là un des rares points où le caractère francais et le nôtre ne se ressemblent pas, alors que de mystérieuses affinités rapprochent nos deux peuples plus que jamais peut-être rien n'a rapproché deux peuples au monde -- nous ne sommes pas bavards bien que nous soyons d'un naturel ouvert. C'est que dès l'âge le plus tendre, l'éducation, la tradition, que suivra plus tard la réflexion, nous ont rendu réservés, sobres en gestes comme en paroles, trop souvent silencieux. Nous avons toujiours su que, s'il n'est pas défendu de communiquer à nos semblables notre joie dans la mesure où elle peut leur être agréable, il convient de leur épargner le récit de nos ennuis, l'étalage de nos misères. Encore moins éait-il permis d'accabler un Francais ami en lui laissant voir le mal qui nous venait d'autres Francais, de la presence de la France. Plus un Francais se montrait attentif et généreux, moins il devait deviner que nous n'étions pas heureux.
Je ne vous cacherai pas que, si l'on nous ignorait, au bord de la Seine et mgme lh-bas, la réciproque était vraie également : en général mes compatriotes ri'avaient que des notions fort sommaires sur la France, l'enseignement étant peu développé, et rarissimes ceux d'entre nous qui avaient pu faire le voyage de France, surtout dans les générations qui précédaient la mienne. Une simple anecdote suffirait à illustrer cette ignorance en retour, une ignorance plus excusable que l'autre, vous en conviendrez.
C'était au cours de mes années d'études à Paris. Un jour, je vis arriver à l'occasion d1une exposition coloniale un négociant, ancien ami de mon père : il venait en qualité de ''Représentant du Peuple'' ou de ''Membre de la Chambre Consultative'', je ne sais plus, car l'appellation a changé -- autour de ces amées-là, pour ces ''représentants'' dont les attributions étaient d'ailleurs plus que minces. Mon compatriote venait de visiter Paris et les environs : devinerez-vous ce qui l'avait le plus étonné ? Ce n'était pas le Louvre, ni Versailles; ce n'était meme pas les Folies-Bergère. C'était ce qu'il avait rencontré entre les pavillons de la Cité Universitaire encore peu nombreux à I'époque et disséminés parmi les restes des anciennes fortifications : dans ce qu'on appelait la zone, mon compatriote avait vu des enfarts malpropres et mal habillés. Il ne pouvait pas en croire ses yeux; il n'avait jamais pensé qua de tels êtres pussent exister en France, parce qu'en Indochine Francaise il n'y avait point de Francais pauvres, il n'y avait point d'enfants Francais sales.
-- Mais, me direz-vous, vous nous faites un cours d'histoire ancienne ! Maintenant, nous sommes au courant de tout ce qui se passe dans le monde; nous avons la radio, la télévision; les images du monde entier nous parviennent avec seulement très peu de retard quand ce n'est pas à l'instant même où les évènements se produisent; nous sornmes présents partout ! Nous agissons déjà en conséquence, déjà notre action dépasse nos frontières, nous participons à la campagne contre la faim, nous allons en perscrme chanter en Germanie, vous le savez bien , vous qui froncez vos sourcils mongols quand nous troublons l'ordonnance de vos cours par quelque opération de solidarité internationale.
Je sais. Le temps n'est plus où les penseurs occidentaux pouvaient écrire en toute sérénité : ''Si l'on vous dit qu'en appuyant sur un bouton, vous tuez un mandarin en Chine, vous ne serez guère ému; le geste vous serait indifférent, parce que cet homime est si loin, vous ignorez tout de lui, c'est comme s'il n'existait point''. Je sais qu'on ne peut plus écrire aujourd'hui cette banale vérité d'hier. Les limites du monde se sont très rapidement rétrécies; et chacun, jusqu'aux enfants, est engagé maintenant à tenir compte de tous les autres habitants de cette boule ronde, chacun y est obligé déjà. Je sais même -- le savez-vous ? -- qu'en envoyant régulièrement une petite somme à certaine adresse de Paris, vous recevrez le nom, l'adresse et la photographie d'un enfant qui végète à plusieurs milliers de kilomètres et que vous aurez contribué à sauver.
L'été dernier, passant un mois chez l'un d'entre vous, j'ai bénéficié de la télévision familiale et, parmi les images qui affluaient à I'improviste de tous les coins du globe, j'ai été frappé, presque tous les jours, par des images de Saigon : c'était au milieu de l'affaire des bonzes qui se donnèrent la mort de facon si spectaculaire. Or, dès avant les vacances, en lisant ce que les journaux imprimaient à ce sujet, je m'étais posé la question que tout éducateur a du se poser : vous a-t-on assez mis en garde contre ce qu'on appelle l'information, sous toutes ses formes, depuis les journaux jusqu'aux actualités des cinémas, en passant par la radio et la télévision ? Vous a-t-on fait réfléchir sur les insuffisances, sur les défauts de ces machines à ''nouvelles'', dont la nature est de tourner vite, dont la mission n'est pas d'ailleurs tant d'instruire ou d'élever que d'amuser et d'étonner, sinon de tromper ? Savez-vous, à propos des bonzes, ce qui m'a choqué dès les premiers jours ? Abonné aux deux quotidiens les plus lus par vos parents et vos pro- fesseurs, l'un du matin et l'autre du soir, j'ai constaté que, sans être pourtant du même bord, ils ont tous deux, pendant des mois, déformé l'affaire dans le même sens. C'est ainsi qu'après avoir été vivement impressionnés par de cruelles images d'hommes qui brulent, nous avons pu lire -- c'était eeme des titres imprimés en gros caractères -- qu'il s'agissait d'un conflit entre bouddhistes et catholiques, c'est-à-dire une guerre de religion, si nous comprenons le Francais. Puis un beau jour, six mois après les premiers incidents, le gouvernement du Viet-Nam du Sud s'écroula à la suite dtun coup d'Etat militaire, peu après que le Président des Etats-Unis d'Amérique eut publiquement désapprouvé ce gouvernement. Avez-vous réfléchi alors, en faisant un retour en arrière ? N'avez-vous pas été frappés par l'extraordinaire explosion de joie populaire à Saigon après la chute du President Diem ?
Avez-vous compris que vous assistiez alors au dénouement d'une lutte dirigée non contre les catholiques mais seulement contre quelques hommes ? Les holocaustes des bonzes n'étaient que la forme particulière d'une révolte qui cristallisa la révolte générale, car depuis des années, le Viet-Nam du Sud tout entier souffrait de la tyrannie d'une seule famille. La preuve qu'il ne s'était point agi d'un conflit entre bouddhistes et catholiques : après le coup d'Etat, les bouddhistes ne se sont pas jetés sur les catholiques, ils n'ont pas continué non plus à se bruler en public, mais catholiques et boud- dhistes ont continué à vivre en paix comme auparavant, comme je les ai toujours vus faire dans mon pays.
Méfiez-vous donc, mes jeunes amis, de labondance de votre information. On inonde vos yeux et vos oreilles d'images et de bruits disparates avec des bribes de phrases, qu'on accompagne de commentaires dont le mains que nous puissions dire c'est qu'ils n'ont pu être pesés; et ceux d'entre vous qui lisent déjà des journaux ne sont pas mains inondés de ''nouvelles'' plus ou mains sensationnelles -- si bien que vous vous croyez au courant de toute l'actualité mondiale; mais vous ne savez pas tout, vous ne savez pas même l'essentiel, vous ne savez pas toujours la vérité, vous ne savez pas les vérités qui comptent. Il n'est pas impossible de rencontrer par hasard une relation exacte, une interprétation juste de tel fait important, mais pour savoir s'y arrêter, il faut avoir appris à faire attention et à réfléchir, pour être à même de distinguer. J'ai eu la bonne surprise de trouver dans un hebdomadaire, peu de temps après le dénouement de notre affaire, quelques lignes qui, dans leur romantisme, sont à la fois belles et vraies; les voici, légèrement modifiées : ''Ne dites pas que ce sont les Américains qui ont renvensé le gouvernement de Saigon, car l'Amérique tout entière ne serait jamais venue à bout de cette famille de glace et d'acier, sans le sacrifice de ces homes au crane nu qui allaient tranquillement s'asseoir au milieu de la rue pour y mourir les lèvres closes.''
Non, il ne convenait pas de crier à l'horreur comme on l'a fait, tout en nous infligeant le spectacle de torches humaines; il ne fallait pas parler de ''violence'' comme cet ignorant à la première page d'un grand quotidien du matin -- il citait lui-même des lettres de lecteurs, qu'il refusait de comprendre, dans sa vanité. Non ! il n'y a pas eu violence, personne n'a subi de violences de la part de ceux qui mouraient les Ièvres closes. Il ne convenait pas non plus d'employer le mot ''suicide'' sans préciser qu'on ne saurait découvrir, dans notre cas, la moindre trace d'un désespoir quelconque. Au contraire, il fallait encore moins imprimer, comme l'hebdomadaire illustré bien connu : ''Une barbarie qui révolte notre sensibilité''. Loin d'être un signe de barbarie, ces sacrifices volontaires sont le fruit él'aboré d'une culture et d'une ascèse, ils témoignent de l'abnégation la plus pure, d'un renoncemmt total à soi, allié au réalisme spirituel le plus efficace. Car -- suivez-moi bien -- sans faire aucun mal à votre adversaire, vous triompher de lui, dans sa propre conscience, et l'instant même de votre immolation, grâce à cet argument sans égal et sans réplique, cette protestation suprême.
Pour ne pas vous égarer comme tant de prétendus informateurs, il suffit de penser à tous les sacrifices qui émaillent les pages de l'histoire de France ou d'ailleurs, près ou loin de vous dans l'espace et dans le temps; pensez à toutes les morts, précédées ou non de souffrances plus ou mains longues et apparement intolérables morts et souffrances qui ait été pourtant acceptées, voulues, pour Ia défense d'une cause, l'obéissance à une idée, la fidèlité à une foi. Rappelez vous les exemples de l'antiquité gréco-latine, pensez à ces ''hara kiri''japonais, pensez au nombre des martyrs depuis ceux de la fosse aux lions, jusqu'au résistants de la dernière guerre, tous ces hommes les plus dignes de ce nom d'homme, qui subissaient les tortures les plus atroces, prolongées durant des heures, répétées durant des jours et des semaines, avant de mourir sans avoir parlé, ou qui se donnèrent la mort pour ne pas risquer de parler sous la torture, dans l'inconscience de la souffrance.
Socrate vidant la coupe de cigue; Jeanne d'Arc attachée sur son bucher, le bonze imbibé d'essence, comment ne pas voir qu'ils participent de la même certitude et de la même sérénité !
Mes compatriotes sont plus proches des autres hommes qu'on ne croit, même quand certains de leurs comportements peuvent paraitre, au premier regard, étranges et lointains. Faut-il rappeler que nos bonzes sont sortis du même peuple dont on a reconnu la capacité d'efforts et de sacrifices, tant chez ceux dont les corps superposés avaient fini par submerger les positions de Dien Bien Phu, que chez ces fourmis qui avaient réussi, contrairement, à toutes les prévisions, à les ravitailler en poussant dans la brousse, par la forêt et par la montagne, des bicyclettes lourdement chargées de riz et de munitions -- camions d'un nouveau genre ?
Mais il y a un fait que le geste des bonzes me rappelle particulièrement, un fait hautement significatif, qui fut celui d'un million d'hommes, et qui n'a pas été vraiment compris non plus en son temps, malgré son retentissement dans le monde, pendant un certain nombre de mois.
Peu après la chute de Dien Bien Phu, quand on apprit que les accords de Genève coupaient notre pays en deux en livrant le Nord aux communistes qui avaient dirigé la guerre, la population du Nord, qui avait plus ou moins aidé ces communistes pendant huit ans, se mit à les fuir. Le régime nétait pourtant pas encore établi, il allait seulement s'installer, mais on savait déjà, par plus d'un signe, qu'il serait tyrannique et totalitaire. Alors, comme un seul homme, par troupeaux entiers, catholiques ou non, bouddhistes ou non, malgré mensonges et menaces, malgré la terreur, les gens partaient: beaucoup n'y réussirent pas et y laissèrent la vie, mais un dixième de la population s'échappa, certains sur des radeaux de fortune, recueillis ensuite par des bateaux Francais. Quoi de plus inattendu, de plus révélateur ? On fuyait le compatriote vainqueur qu'on avait plus ou moins servi jusqu'à la victoire Un évêque étranger qui s'occupait depuis de longues années des réfugiés do toutes nationalités et qui avait, pour cela, voyagé dans le monde entier, déclarait à la table du Président Ngo Dinh Diem, on 1954, en plein milieu de l'immense exode, qu'il n'avait vu nulle part une telle masse de gens abandonner d'un soul coup tout ce qu'ils possédaient pour partir ainsi vers l'inconnu. Il ne savait pas, cet évêque compatissant, que le plus déchirant pour mes frères, ce n'était pas de se séparer d'un sol qu'ils avaient patiemment cultivé. Le plus grave, ce que nous pouvons le moins nous pardonner, c'est d'abandonner les tombes de nos parents, les quelques pieds de terre sous lesquels dorment nos aieux. Nous sommes partis pourtant. C'est que nous avons besoin pour vivre, de quelque chose que les Francais connaissent bien, qu'ils aiment eux aussi, au moins autant que n'importe quel autre peuple, nous aimons profondément la liberté. ''Vivre libre ou mourir'', la formule est Francaise, qu'on répétait plus souvent autrefois, du temps où vous n'étiez pas nés, laissez-moi vous la rappeler.
Voilà des propos bien graves... Chargé par M. le Directeur d'occuper un moment de cette cérémonie du dernier jour, j'ai cru devoir vous entretenir de ce que je connais le moins mal, c'est-à-dire : mon pays, avec mes compatriotes, ce peuple de peine, de fatigue, de douleur. Ceux d'entre vous qui ont été mes élèves pardonnent peut-être davantage, après m'avoir écouté aujourd' hui, à mes sévérités passées. Je n'ai cessé d'exiger de chacun de vous plus d'attention, plus de réflexion, plus d'efforts qu'il n'est convenu, dans cette Ecole Alsacienne célèbre par son esprit de libéralisme, de compréhension et d'indulgence. Si certains m'ont trouvé dur, ne m'en veuillez pas : l'école de la vie m'a enseigné très tôt la nécessité de l'effort, et l'école de la grande Histoire n'a jamais infirmé ma précoce expérience. Savez-vous ce que je viens encore d'apprendre ? Dans certaines écoles primaires de villages, les enfants des harkis, de ces Algériens qui ont servi dans l'armée Francaise et qui ont été regroupés dans des coins perdus de France, ces enfants qui ne savaient pas un mot de Francais au départ, sont vite arrivés à battre leurs camarades Francais. Je ne crois pas qu'ils soient plus doués; je suppose que, par suite de leur expérience du malheur, ils travaillent davantage que leurs camarades, ils se donnent plus de peine. Si petits et si peu nombreux qu'ils soient, ces enfants me font penser à l'énorme masse des Chinois dont on répéte à satiété, depuis quelques années, qu'ils sont x centaines de millions. Le nombre importe peu, admirez plutôt les efforts prodigieux que s'impose chaque unité de ces centaines de millions d'hommes. Puisse l'heure ne jamais sonner pour vous d'avoir à livrer un combat égal pour la survie de la France ! Plus simplement, je dis, en écartant l'idée de toute éventualité redoutable parmi vous, ceux qui ont cédé à mes exhortations savent que seul coute le premier pas, que l'habitude de l'effort s'acquiert vite, que le travail et l'effort apportent avec eux -- fleurs inattendues -- des joies positives, nullement inférieures à d'autres joies. Au surplus, le repos, les loisirs, les plaisirs et les jeux ne prennent tout leur sens que par rapport au labeur qui précède ou qui suit, et jamais vacances ne sont meilleures qu'après une année scolaire bien remplie. Pour les plus grands d'entre vous j'ajoute : tâchez de comprendre ce que veut dire la valeur morale du travail, ne bornez pas votre vue aux nécessités matérielles, à des calculs d'examens et de situations. Est-ce trop d'espérer que quelques-uns me comprendront si je leur confie : quand on se sent capable des entreprises les plus ardues, quand on se sait prêt, au besoin, à tous les renoncements et à tous les sacrifices, y compris le dernier, ah ! comme la vie apparait belle ! ... Aux moindres d'entre vous je puis encore dire : même si vous n'êtes pas du nombre des lauréats dont on couronne aujourd'hui les exploits, je vous sais gré de vous être imposé l'effort de m'écouter jusqu'au bout, comme dans mes classes le long de jusqu'à hier après-midi. C'est donc en toute conscience et de tout coeur je puis vous souhaiter, à tous : Bonnes vacances !

lundi 14 février 2011

MAMAN

Ma mère,
C'est ce qui m'est de plus cher.
À l'aide d'un beau poème,
Je veux lui dire que je l'aime.
Elle est une douce chaleur
Qui réchauffe mon coeur.
Elle est un grand bonheur
Que je garde au fond de mon coeur.
Elle est un éclat scintillant,
Comme un précieux diamant.
Elle est une belle parure,
Comme un collier d'or pur.
Dans la nature, comme un soleil,
Elle m'éclaire, cette merveille.
Dans la nature, comme une jolie fleur,
Elle est une magnifique splendeur.
Ah! J'aimerais tant
Qu'elle vive cent ans,
Pour avoir suffisamment le temps,
Afin de l'aimer tendrement!
Ah! J'aimerais tant
Que maman
Redevienne une enfant,
Pour qu'avec elle je m'amuse vraiment.


Anna Quynh-Chau TRAN
Vaudreuil, Que. - 1990.

samedi 12 février 2011

ITINERAIRE D'UNE VIETNAMIENNE-L'étudiante insoumise





Récit

Itinéraire d'une Vietnamienne,
l'étudiante insoumise

Thi-Hien Tran



Thi-Hien TRAN est née dans un petit village du Nord Vietnam où elle partage sa vie entre l'école et le travail dans les champs. Sous les bombardements américains en 1972, la jeune fille brillante, bachelière de 17 ans, est sélectionnée pour partir étudier en Pologne, République socialiste et modèle de réussite. Fiers et admiratifs que l’une des leurs ait été ainsi « élue » par les autorités, sa famille et les habitants de son village vont alors attendre son retour avec impatience, pour qu’elle les aide à reconstruire le pays après la guerre. En Pologne, Thi-Hien verra son destin changer d’orientation. En 1981, lasse de la clandestinité, elle part en France, laissant derrière elle son mari et sa fille. Elle y découvre la liberté et un système politique nouveau, mais aussi la mesquinerie et la bassesse de ceux qui ne manqueront d’exploiter sa situation précaire. Il lui faudra traverser de nouvelles épreuves, et attendre une longue année avant que les siens puissent la rejoindre.

Thi Hien TRAN nous livre ici le témoignage émouvant d’une femme, rebelle et insoumise, éprise de liberté et qui, toute sa vie, aura essayé de vivre son propre destin, non pas celui que le système communiste, qu’elle n’a cependant jamais renié, avait choisi pour elle.

Loin d’avoir réalisé son rêve de jeune fille, Thi-Hien TRAN n’a jamais cessé de se battre et a surmonté de terribles épreuves. Rongée par la honte d’avoir « trahi » ses proches pour décider seule de son avenir, elle n’est retournée au Vietnam que 19 ans plus tard.

vendredi 11 février 2011

Roman Ridicule de Pham Minh Tho et Pham Dan Ha




HISTORIQUE



En 2001, nous avions commencé à écrire une nouvelle qui a finalement débouché sur l'écriture de tout un roman sur l'adolescence...roman que nous avons terminé au bout de six ans! Au cours des dernières années, nous l'avons perfectionné, sans toutefois altérer la jeunesse et la vivacité du récit.


Seconde étape : il a fallu trouver un éditeur qui accepte de le publier!

Heureusement, les Editions Bénévent ont bien voulu donner une chance à notre projet ^_^ et aujourd'hui, la fabrication éditoriale est enfin achevée...notre roman est né, petit bébé de 980 pages!


Seul hic : le prix de vente imposé pour sa commercialisation était de 44 euros! Et malgré nos demandes de négociation, le prix n'a pu être abaissé qu'à 36 euros, en raison de notre ouvrage trop conséquent!


Conscientes du coût élevé que cela représenterait pour un acheteur potentiel, nous avons préféré prendre en charge la promotion et la vente de notre livre par nous-mêmes, afin de proposer à nos futurs lecteurs un prix plus abordable (se reporter tout en bas de la page).

BIOGRAPHIE DES AUTEURS

Voici la version officielle (celle qui figure au dos du bouquin!):


D'origine vietnamienne, Minh-Tho et Dan-Ha PHAM sont nées à Paris en 1985 et en 1990. Ces deux soeurs, très proches l'une de l'autre, adorent toutes les deux la lecture, le cinéma, et jouent de la guitare classique.


Ridicule! est leur premier roman commencé dès l'âge de 16 et 11 ans - à l'origine, simple nouvelle humoristique co-écrite pour le plaisir pendant les vacances scolaires -, étoffé et retouché durant six ans avec les ingrédients de leur vie d'adolescentes.

PRESENTATION GENERALE



Ridicule! est un roman de jeunesse, débordant de vitalité et facile à lire puisqu'il est écrit au présent et essentiellement composé de dialogues, ces derniers représentant le mieux, d'après nous, ce que nous avons voulu écrire: la vie. Le thème principal tourne autour de l’adolescence à l’état brut: la peur de se ridiculiser, la soif d’aimer et de l’être en retour, les difficultés de s’intégrer, la rébellion contre ses parents, l’apprentissage de soi-même, la découverte de problèmes psychologiques, l’épanouissement au sein d’une société focalisée sur les apparences…

Le narrateur est l’héroïne elle-même, une jeune fille nommée Rachel Rizo qui devient la risée de sa classe le jour de sa rentrée en troisième dans un collège privé réputé. Malgré les circonstances, elle vivra sa première histoire d’amour, se fera de nombreux amis et sera souvent confrontée à des situations imprévues, embarrassantes ou problématiques (mensonges, rivalités, jalousie, dilemme, tensions, conflits).


L’histoire se passe à Paris, durant l’année scolaire 2000-2001. Par ailleurs, même si les personnages principaux sont des jeunes, la participation des adultes (parents et professeurs) dans leur vie n’est pas négligeable.


L’humour est quasiment omniprésent puisque le but premier de ce livre est de faire rire et d'apporter de la joie au lecteur, à travers de multiples moments insolites, dérisoires et hilarants (d'où le titre Ridicule!); cependant, notre ouvrage soulève également des problèmes sérieux que les personnages principaux ou secondaires devront affronter.


Cette œuvre, divisée en 32 chapitres, dépeint donc l’insouciance de la jeunesse tout en montrant combien la vie peut être aléatoire.

RESUME DE L'HISTOIRE



Adolescent, vous rêvez d’être attirant, branché, populaire…tout sauf ridicule!

La honte, c’est l’ennemi des jeunes. C’est marrant tant que ça touche les autres, pas vous. Surtout dans un milieu à la fois naïf et cruel où les apparences comptent plus que tout!


Rachel vient d’emménager à Paris. Elle est jolie, intelligente…mais terriblement maladroite! Résultat: sa rentrée en troisième est une catastrophe! Situations improbables, délicates et hilarantes, constituent le quotidien de cette héroïne attachante qui, malgré les railleries et les circonstances, s’épanouira à un âge où l’on n’est ni puéril ni mature, simplement jeune, coincé, innocent et insolent avec ses parents, et où l’on survit grâce à l’amour et à l’amitié…


Peu à peu, Rachel apprendra à connaître J-B, l’élu de son cœur, Eric, qui cache ses sentiments, Natacha, la bombe du bahut, Carole, l’autre nouvelle, et bien d’autres, amis ou profs, vivants, vulnérables et risibles avec leurs secrets, leurs angoisses ou leurs rivalités…


Succombez à ce roman original et riche en surprises, à la fois comique et prenant, rafraîchissant et émouvant, tendre et fragile, superficiel mais essentiel!

BIBLIOGRAPHIE



Nous n’avons pas eu besoin de recourir à des citations d’auteurs célèbres pour écrire ce roman. En revanche, nous avons utilisé de nombreuses chansons datant pour la plupart de l’actualité de l’époque, pour leurs belles paroles ou tout simplement pour mieux planter le décor.


Certaines servent surtout à illustrer les fêtes organisées par les personnages, notamment dans le chapitre XIX avec If I could turn back the hands of time de R. Kelly, My heart will go on de Céline Dion et Aimer de la comédie musicale Roméo & Juliette ; ainsi que dans le chapitre XXII avec Ces soirées-là de Yannick, Tu vas me quitter d’Hélène Ségara, Tu ne m’as pas laissé le temps de David Hallyday ou même Oops! I did it again de Britney Spears!


D’autres sont là pour accentuer la détresse des personnages, comme par exemple: Que tu reviennes de Patrick Fiori (chapitre XII); Le dilemme de la comédie musicale Les Dix commandements (chapitre XXIV); If there’s any justice in the world de Lemar, If you’re not the one de Daniel Bedingfield, Qui je suis de Kyo, Si seulement je pouvais lui manquer de Calogero et Bad day de Daniel Powter (chapitre XXXII).


Par ailleurs, étant donné que nous avons choisi de faire jouer Notre-Dame de Paris comme spectacle de fin d’année par les personnages de cette œuvre, il est naturel d’y avoir fait figurer quelques extraits de chansons de la comédie musicale produite par Luc Plamondon et Richard Cocciante, telles que: Les sans-papiers (chapitre X); Déchiré, Beau comme le soleil (chapitre XXIV) et Le temps des cathédrales (chap XXX).


Enfin, nous avons pris beaucoup de plaisir à faire interpréter par nos personnages, lors des auditions des solistes (chapitre XVIII), des chansons nostalgiques qui, mis à part Armstrong de Claude Nougaro, sont toutes tirées de films d’animation qui ont bercé notre enfance ^_^ : Hakuna Matata (Le Roi Lion), Avec la foi (Le Prince d’Egypte), Loin du froid de décembre (Anastasia), Rien qu’un jour, Les bannis ont droit d’amour (Le Bossu de Notre Dame), Jamais je n’avouerai, Le monde qui est le mien (Hercule), Plus loin que dans mes rêves (Le cygne et la princesse), Pour toi et moi, Partir là-bas (La petite sirène), L’air du vent (Pocahontas), Ce rêve bleu (Aladdin) et Comme un homme (Mulan)!

Viet-Nam: quatrième génération (Joséphine Le Quan Thoi)





Née à Saïgon (Viêt-Nam) et cadette d’une fratrie de neuf enfants, Joséphine (Phi Long de son prénom vietnamien) quitte précipitamment sa ville et son pays natal en 1957 avec l’ensemble de sa famille. Après avoir commencé ses études à l’école des Soeurs à Tan Dinh, elle les poursuit en France dans la comptabilité. Elle a travaillé dans une filiale de la Caisse des Dépôts et Consignations.



Notre avis : "Viêt-Nam: quatrième génération" est le témoignage d’une exilée vietnamienne, qui a suivi l’ensemble de sa famille pour s’installer en France à la fin des années cinquante. L’auteure dévoile ainsi un pan méconnu de l’histoire coloniale française, celle de ces "rapatriés d’Indochine", et rend compte des difficultés générées par leur exil soudain. Joséphine énonce ainsi les obstacles rencontrés par les siens, mais aussi ces infimes mais heureux triomphes sur l’adversité. A travers ce texte est ainsi dressé le portrait d’une famille unie et volontaire, qui n’hésita pas à s’établir et à rebâtir une nouvelle vie, loin de ses racines. Plus que de dire les liens filiaux et familiaux, ce récit les consacre et affirme leur nécessité afin de surmonter les épreuves et les pièges tendus par le destin.

Résumé : Cadette d’une fratrie de neuf enfants, Joséphine (Phi Long de son prénom vietnamien) quitte précipitamment Saigon et son pays natal en 1957 avec l’ensemble de sa famille. Ils appartiennent ainsi à ces "rapatriés d’Indochine" qui débarquent à Marseille en novembre 1957. Cependant l’expatriation n’est pas aisée, l’installation en France est chaotique et le petit clan fait tout d’abord l’expérience des petits logements sans confort. C’est toutefois sans compter sans la force de caractère du patriarche qui parvient à extraire sa famille d’une situation incertaine et à lui trouver un logement décent à Paris. Tel est le point de départ de cette aventure familiale singulière et riche d’enseignements. Evoquant les siens et ses disparus, Joséphine retrace ici la saga de sa famille des rives de l’ancienne Indochine à la France. Au fil des pages, elle évoque ainsi les joies et souffrances d’une famille d’exilés qui, tout en subissant les coups du sort, s’est patiemment construit une existence heureuse dans leur pays d’élection.

mercredi 26 janvier 2011

Số phận con người trong tác phẩm "Le Boujoum" của Cung Giũ Nguyên


« … Một vật mong manh được giữ lại trên một vực thẳm nhờ những sợi dây vô hình của hy vọng ».

Đó là câu mở đầu và cũng là câu kết trong cuốn tiểu thuyết Le Boujoum (Thái Huyền[1]) (1980, 2002) của văn sỹ Cung Giũ Nguyên. Le Boujoum ra đời trong một hoàn cảnh hết sức lạ thường : tác giả người Việt gốc Hoa, Tác phẩm được viết bằng Pháp ngữ và được xuất bản tại Hoa kỳ. Nếu có ai đó nghiên cứu tác phẩm dưới khía cạnh xuất xứ thì chỉ cần lướt qua những yếu tố trên cũng đủ thấy được tính độc đáo của nó.


Thế còn Le Boujoum hay Thái Huyền nghĩa là gì ? Trong phương pháp phân tích tiểu thuyết, tựa đề của tác phẩm thường gợi cho ta cái nhìn tổng quát về nội dung mà tác giả muốn diễn đạt, dù đó là một câu truyện hoàn toàn hư cấu hay đó là một thực tế ở đời. Tựa đề Le Boujoum hay Thái Huyền một cách nào đó đã « vô tình » làm cho tác phẩm xa lạ với độc giả, vì nó là phạm trù không hiện hữu trong từ điển tiếng Pháp và tiếng Việt. Nếu như độc giả có hỏi từ đó nghĩa là gì thì cũng chỉ nhận được lời giải đáp vô thưởng vô phạt : « Đó là cái bạn đọc, cái bạn thấy ! »

« Đọc » Le Boujoum không giống như đọc Nhân tình thế thái (1931), Nợ văn chương (1934) hay Kẻ thừa tự của ông Nam Hải (Le Fils de la Baleine) (1956). Bởi vì ngôn ngữ của Le Boujoum là thứ ngôn ngữ đã được mã hóa mà độc giả cần phải có một thứ chìa khoá để giải mã từng từ từng câu trong mỗi trang của tiểu thuyết. Đó phải chăng là dụng ý của tác giả ? Đúng vậy, nếu cuộc đời của Amdo - nhân vật chính trong truyện - nổi trôi giữa những sự kiện, những bối cảnh nghịch lí khó hiểu và hầu như không thể giải thích được, thì ngôn ngữ của Le Boujoum là hình ảnh gợi cho người đọc cái trừu tượng và cái phi lý nơi mảnh đời phiêu dạt của nhân vật. Qua hình ảnh số phận Amdo, xin được ghi nhận một vài ý tưởng về thân phận con người nói chung mà rất có thể Cung Giũ Nguyên, qua Le Boujoum, muốn nhắn nhủ chúng ta hãy thức tỉnh nhìn lại chính mình trong một thế giới đầy nghịch lý và buồn tẻ. Vì con người luôn luôn bé nhỏ, yếu đuối so với cái « Huyền ».

Le Boujoum đương nhiên không phải là tác phẩm triết luận mà là một tác phẩm văn chương. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn nó dưới giác độ triết lý, chúng ta sẽ thấy nơi đó những nguyên lý thực tại về số phận con người và về bản căn của một thế giới vô thường, nơi mà cái « Huyền » là Tuyệt đối, là căn nguyên của mọi sự.

Về số phận con người, vấn đề này, xin không đi vào bàn luận sâu sắc các quan niệm khác nhau về số phận, hoặc tranh cãi có hay không cái gọi là số phận (le destin). Chỉ xin nhắc lại là, mỗi người có cách nhìn riêng về chính cuộc đời của mình. Đối với những người theo trường phái Khắc kỷ thì chính số phận dẫn con người đến cái chết không thể cưỡng lại được. Con người không có một thứ tự do nào cả, vì đã được ấn định vào một sinh mệnh và theo một nhân phẩm nào đó. Trước những biến cố xảy ra, dù lớn hay nhỏ, con người không thể vượt qua được. Như vậy, những ai nhìn cuộc đời như số phận đã định sẵn, họ chẳng cần cố gắng tìm cách để thay đổi cuộc sống mà chỉ chờ đợi cái chết như là cứu cánh của đời mình. Cách nhìn của triết học Hy Lạp cũng cho rằng số phận là sự sắp đặt vĩnh viễn, phi nhân cách, là quy luật của các biến cố trong cuộc sống mà ngay cả các thần linh cũng không thắng được. Vì vậy, mọi hy vọng thoát khỏi số phận đều vô nghĩa. Tuy nhiên, khác với phái Khắc Kỷ, triết lý Hy Lạp tin rằng trong chính cái số phận còn có một thứ « tự do ». Thứ tự do này có thể cho phép con người làm thay đổi các biến cố xảy đến, và trong một mức độ nào đó làm giảm nhẹ hậu qủa của chúng.

Trở về với Le Boujoum, hình ảnh Amdo là điển hình cho các nhân vị hiện hữu, anh ta đã chứng kiến được những đổi thay của chính mình trước những biến cố kinh hoàng khó hiểu trong những năm tháng phiêu dạt của đời mình : những đổi thay này biểu hiện trên cả chiều kích tâm lý lẫn thể lý. Sau biến cố động đất kinh hoàng xảy ra tại nơi anh làm việc - phỏng đoán hay tưởng tượng - Amdo sống trong cảnh lang thang và được gán cho cái tên là đại úy Bloke, chiến sĩ anh hùng của dân tộc « Củ Chàm » (Indigos). Chính cái cái tên Bloke này đã khiến Amdo trở thành một trong số dân « Củ Chàm » bị lính lê dương thuộc dân tộc « Củ Nghệ » (Safrans) bắt đi đày. Sống trong trại tù Feritaoun, Amdo đã làm quen với những tù nhân đấu tranh cho dân nghèo và lẽ công bình. Họ đã dệt nên tình huynh đệ thân tín, chia sẻ cơm áo và lý tưởng trong những lúc khó khăn. Sau những ngày gian khổ, Amdo được đưa về làm Triều thần bên cạnh Hoàng tử Đá Bọt (Pierre Ponce), tiếp theo trở thành Thượng thư Nội giám, và cuối cùng làm Tướng quốc của triều đình « Củ Nghệ », đỉnh cao của quyền uy và danh dự, để rồi cuối cùng lại hóa thành kẻ lang thang một mình giữa biển đời gian khổ. Một kiếp luân hồi !

Nêu lên những sự kiện trên để thấy rằng đó chỉ là một sự chuyển biến tâm lí trong một con người : « Là sự kế tiếp của những tình trạng này khác của tiềm thức, tiền thức, vô thức cá nhân, vô thức gia đình, vô thức cộng đồng, […], [và cuối cùng] tình trạng của ý thức »[2]. Sự manh nha của ý thức đã giúp con người tỉnh ngộ để suy gẫm về sự hiện hữu của mình. Tình trạng của ý thức cho thấy con người đang phải « đương đầu với vấn đề cuộc sống và cái chết ». « Con người ý thức » cũng đã nhận biết được rằng, cuộc sống là một « đầu mối luôn luôn phải có đối ứng tất yếu là đầu mối kia »[3], nghĩa là cái chết. Như vậy bánh xe duyên kiếp hay số phận không ngớt xoay vần từ đầu mối này sang đầu mối kia. Nó đã vần xoay trong chuỗi những biến cố kinh hoàng của Amdo. Với những kinh nghiệm chua xót từ những biến cố ác liệt, Amdo, con người ý thức, đã không tìm lối trốn thoát mà vẫn « ở lại » vị trí của mình để khẳng định niềm tin vào chính mình : « Và nếu phải trải qua một kinh nghiệm khác nữa, thì, mặc kệ, chẳng còn gì có thể làm tôi ngạc nhiên, dù đó là sự phối hợp giữa thiên đàng với địa ngục, […], kể cả sự ám ảnh của Thái Huyền, của điều cảm nhận mà không giải thích được, của bâng khuâng về ý nghĩa dệt bằng vô nghĩa » (Et s’il faut connaître une nouvelle expérience, eh bien, tant pis, rien ne me surprend plus, même le mariage du ciel et de l’enfer, […], même la hantise du Boujoum, de ce qui se sent et ne s’explique pas, de cette obsession du sens tissé de non-sens)[4].

Và như vậy, những nỗi kinh hoàng đã không còn là điều gây sợ hãi đối với Amdo nữa. Nhất là khi anh ý thức rằng : « (Con người) như một vật mong manh được giữ lại trên một vực thẳm nhờ những sợi dây vô hình của hy vọng … » ((L’homme) en tant que fragile objet, retenu au-dessus d’un gouffre, par les fils abstraits de l’espérance…)[5].

Hy vọng nơi đâu ? Hy vọng vào điều gì ? Và có lý do nào để hy vọng ? Đó cũng là những câu hỏi mà Amdo đã tự chất vấn mình để rồi đi tìm lời giải đáp phù hợp nhất. Lời giải đáp chỉ có thể tìm được trong chính thực tại giữa con người với nhau. Tình yêu và tình liên đới là những sợi dây hy vọng làm cho cuộc sống của anh có ý nghĩa hơn. Tình yêu của anh dành cho nàng Domicella biệt tích trở thành bất hủ, anh đã nhờ văn tự của Calame, một người bạn, để thổ lộ tình yêu đó. Tình huynh đệ được nhắc đến như một yếu tố vô cùng cần thiết. Vì chính nó đã giúp Amdo thoát khỏi những biến cố kinh hoàng và dẫn anh về miền ý thức. Ngoài Dani, Pergorain, Brogpa, Jubel thì Calame, anh chàng chắp bút, là bạn thân còn lại, đã làm thức tỉnh Amdo, kẻ bơi lội trong cánh đồng thất vọng và buồn tẻ vì thiếu sự đối thoại của con người.

Le Boujoum vừa là thứ ngôn ngữ diễn tả cái thực tại vừa là thứ ngôn ngữ của thế giới vô thường. Thực tại, vì nó nhắc đến những điều tất yếu trong cuộc sống con người : sự chiến đấu giữa tốt và xấu, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác ; nó cũng nói lên cái số phận của con người bị quên lãng và đang phập phồng lo sợ trong vực thẳm trần gian với những phấn đấu để tìm lại sự sống và tự do.

Thế giới vô thường, vì Le Boujoum gián tiếp nhắc nhở rằng : mọi sự của trần gian cần phải trở về đúng chỗ của chúng. Thực vậy, qua cảm nghiệm của cuộc đời, tác giả của Le Boujoum đã chứng kiến nhiều những phi lý, những huyền hoặc. Nhà văn đã cố gắng bình tĩnh tìm cách siêu thoát trong tâm hồn mình, để khám phá chân lý cuộc sống, cái mỏng manh của cuộc sống như sợi dây có hai đầu mối, cần có sự nâng đỡ của bàn tay vô hình là cái Huyền Tuyệt đối, là nguồn gốc và căn nguyên của mọi sự.

Như vậy, con người có thể xem các biến cố trong cuộc đời như là những bất ngờ phi lý hay như số phận mình gánh chịu. Nhưng cách nhìn đó chỉ có thể đến, hoặc từ con người vô thức, không phải « con người thật », hoặc từ con người tự phụ, kiêu căng. Hình ảnh « con người » như thế đã biểu hiện rõ nhất khi Amdo có địa vị và quyền lực trong tay, điều dẫn đến sự từ chối tình huynh đệ và cuối cùng là sự giết hại chính những người bạn thân của mình. Nhưng trên hết mọi sự, khi « con người ý thức » trỗi dậy, Amdo đã biết mình là ai, biết nhìn nhận những hành động của mình để phấn đấu trở về đúng với « vị trí » và nguồn gốc của mình./.



[1] Thái huyền, trang XII.
[2] Le Boujoum, trang 11.
[3] Ibid., trang 653.
[4] Ibid. trang 654.

Phạm Văn Quang (ĐH KHXH-NV HCM.)

NGÀN ĐỜI NHỚ ANH

NGÀN ĐỜI NHỚ ANH

::: Cung Giũ Nguyên :::


Ngày thứ bảy ấy, mẹ tôi đưa tôi ra xe hỏa để trở về Ngọan Mục. Mặc dầu có lời khuyên bảo của bác sĩ chuyên môn, tôi biết tôi đã vĩnh viễn đi vào cuộc đời mới, đời của kẻ mù lòa. Thôi, hy vọng của tôi học cho hết mấy năm đại học để có chút danh phận hay để làm nên một sự nghiệp, hy vọng của tôi cũng như của mẹ tôi đã tiêu tan mất, như những màu sắc cuối cùng tôi thấy một buổi sáng nơi bờ biển Vũng Tàu, rực rỡ một hồi rồi biến thành một màu xám đen, mãi mãi xám đen.

Ba tháng nằm ở bệnh viện không thay đổi được tình trạng. Tôi có thể hiểu xuyên qua lời giải thích của nhà chuyên môn, nào nguyên nhân nào biến trạng, nhưng tôi không thể chấp nhận hiện tại đau đớn và tuyệt vọng, vì hiện tại ấy là của tôi. Bạn hữu thăm viếng tôi, an ủi tôi với những mẫu đời tươi đẹp và can đảm của những người mù danh tiếng như cô Helen Keller hay chàng ca sĩ da đen Ray Charles, nhưng tôi không phải là họ. Tôi chỉ là một đứa con gái hai mươi hai tuổi, con duy nhất của một góa phụ sống về nghề rau quả ở một làng nhỏ ở Cao Nguyên, không có biệt tài nào, không có phương tiện nào để vạch một con đường đời khác những bạn đồng lứa, đồng thời, với tôi. Lớn lên phải đi học, học phải lên lớp, đến lớp cuối phải thi và thi cho đậu, thi đậu lại tiếp tục học, học để rồi mù, để trở thành gánh nặng cho những người chung quanh phải lo cho mình mọi sự.

Một Dì phước trong bệnh viện đã khuyên tôi hảy tìm Chúa, hảy cầu nguyện Chúa cho lại ánh sáng. Nhưng từ xưa nay, tôi chẳng biết đến Thượng Đế nào, tôi đã trả lời với Dì phước là tôi thấy hổ thẹn phải cầu xin một Đấng mà tôi đã không có cơ hội phụng thờ. Chúa là của Dì, nếu Dì muốn, Dì cứ cầu xin cho tôi. Người nữ tu đành đáp lại một cách nhẫn nhịn : " Chúa là Chúa chung cho tất cả, của những ai đã tin cũng như của những người không biết hay chống lại Chúa nữa. Nhưng tôi sẽ không quên cầu xin cho Chị, Chị đừng ngã lòng, hảy về tịnh dưỡng một thời gian đi?

Xe hỏa đến ga Cầu Bảo một buổi trưa nóng gay gắt, Tôi nhận ra những khoảng trống mặt trời chiếu trên đầu tôi, cho đến khi mẹ tôi dìu tôi vào phòng đợi của nhà ga. Chúng tôi phải sang xe, nhưng xe đi Ngoạn Mục nửa giờ nữa mới có. Chuyến tàu của chúng tôi đi từ Saigon đã rời khỏi nhà ga, tiếp tục con đường ra Nha Trang, Những tiếng ồn trong phòng đợi đã bớt đi, nhưng lại có tiếng xì xào của những hành khách đi Dalat như chúng tôi. Tàu không có. Đường bị hỏng. Chuyến tàu bị hủy bỏ. Tôi hỏi mẹ tôi. Có tiếng lễ phép của một người đàn ông xác nhận không có tàu lên ; đường móc sắt phía trên Krongpha hư. Có lẽ một hai ngày nữa mới sửa xong. Tôi không còn nghe tiếng người lạ ấy nữa.

Mẹ tôi bàn với tôi xuống Phan Rang ở lại một hai bữa hay là thuê xe hơi về Ngoạn Mục. Cả hai giải đáp không mấy thuận lợi. Với bệnh tật của tôi, tôi nghĩ đến bao phiền phức gây thêm cho mẹ tôi. Đợi tàu nơi phòng khách nầy cho đến khi nào không biết, cũng chẳng phải một lối thoát êm ả. Chúng tôi đang còn phân vân thì có tiếng giày bước đến gần chúng tôi, và giọng nói êm ái, trẻ trung, lịch sự, của người đàn ông khi hồi, cất lên một cách thiện cảm: " Tôi có xe đi lên, nếu quý bà cần đi gấp, xin mời đi. - Cám ơn thầy, mẹ tôi nói, nhờ thầy cho mẹ con tôi quá giang, chúng tôi sẽ xin trả tiền. - Thưa không, xe nhà, chỉ có mình tôi lên, rộng chổ, và không có vấn đề tiền nong gì cả. Các bà ở đường phố nào trên Dalat ? - Chúng tôi không ở trên ấy, nhà chúng tôi ở Ngoạn Mục. Đây là con gái tôi, học ở Saigon nhưng phải về dưỡng bệnh." Người đàn ông có lẽ đã cúi xuống để xách cái va-ly cho mẹ tôi, và có lẽ thấy tay tôi đang quơ quào tìm hành lý nhỏ để bên cạnh, đã biết kính đen của tôi che đậy bệnh tật gì. Tay người đã đỡ cái xách và đặt vào tay tôi.

Xe chạy khỏi cầu Tân Mỹ, khí trời trở nên dễ chiụ. Tôi ngồi ghế sau với hành lý. Mẹ tôi ngồi bên cạnh người lái xe. Thỉnh thoảng, mẹ tôi ngoảnh lại để đưa cho tôi nước uống, những múi cam bóc sẵn của người lạ mời. Mẹ tôi đã trò chuyện nhiều với chủ xe. Tôi thoáng hiểu người ấy chừng ba mươi tuổi, có một hiệu sách Nam Đồng, gần chợ Dalat. Ông ta chỉ vì thích đọc sách mà trở thành người bán sách, chưa có gia đình, không cha mẹ anh em, sống một mình, khi nào cao hứng thì đóng cửa hiệu để đi du ngoạn hay vào rừng kiếm phong lan. Mẹ tôi nắm lấy cơ hội, nói có một số hoa, không ai săn sóc, sẽ biếu ông.

Đến Ngoạn Mục, mẹ tôi chỉ đường cho ông Nam Đồng rẽ vào vườn nhỏ bé của chúng tôi. Miễn cưỡng lắm, ông mới bằng lòng vào nhà, để chúng kiến cảnh vú già tôi ôm choàng tôi khóc lóc thảm thiết. Hình như ông Nam Đồng chịu uống một tách nước trà nóng, nhận một đôi phong lan, đi quanh vườn rau để thấy công việc làm ăn của mẹ tôi. Trở vào nhà, ông đã nói đôi lời trước khi mẹ tôi tiễn ông ra cổng. Rồi tiếng máy nổ và xe chạy. Tôi trở lại đời yên tĩnh và âm u của tôi.

Mãi gần một năm sau, tôi mới có dịp nghe lại tiếng nói của ông Nam Đồng. Ông đến cùng vài người đứng tuổi, bà con gì với ông ấy, không chỉ để thăm mẹ con tôi, mà đến để bàn một chuyện chúng tôi không bao giờ nghĩ đến. Tôi vẫn mù lòa, đã quen thuộc khung cảnh, tôi không thấy khó chịu gì lắm khi đi đứng, di chuyển. Tôi làm được đôi việc để giải khuây hơn là giúp đở mẹ tôi hay vú già. Một người cậu của tôi đã cho tôi một máy hát và rất nhiều đĩa hát ; nghe âm nhạc cổ kim là giải trí thường xuyên của tôi. Mấy bạn học của tôi đã cho tôi một con chó xù, nó là bạn duy nhất luôn luôn bên cạnh tôi. Thế mà ông Nam Đồng lại có ý xin cưới tôi làm vợ. Mẹ tôi cảm động, hỏi ý kiến tôi. Tôi từ chối, và mẹ tôi cũng đồng ý với tôi như vậy. Ngoài những lý do riêng của mẹ, riêng của tôi, hai mẹ con tuy không nói thẳng ra, không muốn để cho một người nào khác, chẳng tội tình gì, phải đến chịu gánh nặng săn sóc một người bệnh tật suốt đời. Tôi còn nhớ lời từ khước của mẹ tôi : " Xin cám ơn ông bà, cám ơn cậu, con tôi bệnh hoạn. Tôi cầu Trời khẩn Phật cho cháu chóng lành để sống được một đời bình thường. Bây giờ thì không thể nghĩ đến chuyện cưới gã được." Lại những tiếng thì thầm nơi cửa, và tiếng nhiều chiếc xe chạy từ từ. Đứng nơi cửa sổ, tôi đưa mặt ra phía đường để tưởng tượng hình ảnh những chiếc xe lăn sau hàng cây mơ.

Trời Phật đã thương mẹ tôi nhiều hơn tôi. Mùa thu năm ấy, mẹ tôi từ trần sau những cơn sốt liên miên. Ở nơi hẻo lánh, vì không gần thầy thuốc, vì mẹ tôi quá tin nơi thuốc cổ truyền và số mạng, mẹ đã bỏ tôi lại bơ vơ với vú già và một đôi vợ chồng giúp việc nơi vườn rau. Tôi đã hết nước mắt để khóc. Không ai có thể thấy vực thẳm đau khổ của tôi xuyên qua cặp kính đen, với đôi mí mắt luôn luôn nhắm kín. Cậu tôi và một số thân thuộc được tin đã đến lo việc chôn cất và khuyên tôi về ở với họ chốn An Xuyên là quê hương của cha tôi. Tôi không muốn đi đâu nữa. Dời đến nơi nào, vũ trụ tôi cũng chỉ là một vũ trụ nhỏ bé trong màn đêm. Nơi nhà mẹ tôi, tôi đã quen thuộc những tín hiệu của âm thanh, của mùi hương và thể vật ; chúng đã trở thành một quyển sách phong phú tôi dùng được và tìm ra được ít nhiều hứng thú. Tôi nhớ câu chuyện người mù của thi sĩ Lamartine nhắc lại trong hồi ký : "Tôi thấy tiếng kêu của sơn ca buổi sáng, tôi thấy tiếng hót của họa mi buổi chiều?" Tôi cũng có một kinh nghiệm tương tự, hình ảnh nơi đây đã trang điểm cái nhìn bên trong của tôi rồi. Dời đi nơi khác lại cần một thời gian để thích nghi những phản ứng mà tôi xét không còn can đảm và kiên nhẫn để vượt lên những khó khăn nửa. Vú già sẽ tiếp tục bảo bọc tôi, và vợ chồng người trông nom vườn cũng hứa tiếp tục đảm đương mọi sự như có mẹ tôi vậy. Đời sống vật chất không thay đổi gì mấy, nhưng vắng mẹ tôi, tôi cảm thấy đến mấy lần mồ côi.

Khoảng mười ngày sau lễ an táng mẹ tôi, vú già cho biết có ông Nam Đồng đến. Tôi chẳng hiểu những gì trong thâm tâm tôi đã khiến khi gặp lại ông Nam Đồng, người tôi thường gọi là "ông ", tôi bỗng gọi "anh". Cảm xúc của anh không kém. Lần đầu tiên anh cầm tay tôi, vừa an ủi tôi, vừa hỏi về những ngày cuối của mẹ tôi, và những dự định tương lai của tôi. Vú già vui mừng không kém tôi khi mời được anh ấy ở lại dùng cơm trưa. Và anh đã nhận như thể là một cử chì từ tâm, muốn cho tôi cảm thấy bớt hiu quạnh, dù cho chỉ là trong một khoảnh khắc. Nhưng rời khoảnh thời gian ấy có thể nối dài. Anh đã nhắc lại lời ước vọng năm trước, và lần nầy, cũng chẳng hiểu vì sao, tôi lại bằng lòng. Gánh nặng bây giờ trở nên quá lớn cho vai tôi, tôi cần người phụ lực. Nhưng tôi không muốn ràng buộc anh, hoặc tôi khiếp sợ một cảnh đổ vỡ thê thảm có thể xẩy ra sau nầy. Tôi chỉ bằng lòng làm người bạn của anh mà thôi với một số điều kiện. Anh chấp nhận không phải để lấy rồi, mà với sự hiểu biết chín chắn và thành thật.

Quyết định của tôi xẩy ra đồng thời với cuộc chinh chiến. Khói lửa đã lan rộng trên đất nước. Cho đến nơi Ngoạn Mục hiền lành, mùi bom đạn cũng không tha. Bây giờ tôi mừng có anh tôi bên cạnh. Anh đã dẹp bỏ hiệu buôn ; những sách vở anh thích đọc, những vật kỷ niệm anh quyến luyến, anh đã chở trên cái xe xưa, đem về nhà tôi. Anh đã tu sửa lại phòng của mẹ tôi bên cạnh phòng tôi, để ở riêng biệt. Anh đã tôn trọng lời hứa, suốt bao nhiêu ngày tháng sống bên tôi, anh chẳng có lời nói, cử chỉ nào vượt qua biên giới chúng tôi đã vạch định. Những chiều lạnh, cùng ngồi cânh lò sưỡi, anh xem sách, tôi đan áo, tôi nghĩvà mơ ước anh sẽ đến đặt tay trên vai tôi để cho cảm giác gần nhau hơn nữa. Nhưng anh đối xử với tôi như người em gái. Chỉ trong công việc nhà, trông nom vườn rau, trồng thêm hoa quả, giao thiệp với bạn hàng, anh đóng vai trò gia trưởng có trách nhiệm. Đối với vú già, đối với những người giúp việc hay các gia đình lân cận, anh là chồng chính thức của tôi.

Một buổi sáng, cũng như thường ngày, anh dậy thật sớm. Tôi nhận ra những tiếng động ở phòng bên cạnh, đến phòng bên ngoài. Anh sửa soạn bình tách, pha cà phê, uống một chén, rồi để sẵn phần của tôi trên bàn trước khi rời khỏi nhà. Hôm ấy anh phải đi xem những xe đến chở bắp cải. Nhà vắng tanh, vú già đi chợ. Tôi làm biếng thu gọn mình trong mền ấm, nằm mãi trên giường, vừa nghe nhạc và mơ mộng. Có tiếng chó sủa. Có người làm gì với chó đến nỗi chó không sủa nữa. Những tiếng đi thình thịch vào nhà làm rung rinh thềm ván. Có lẽ anh có việc gì về gấp. Tiếng bước đến gần. Cửa phòng tôi không gài được đẩy ra. Có phải anh không ? Anh cần gì ? Chẳng có tiếng đáp. Tôi vùng dậy Có cánh tay đàn ông choàng lấy thân tôi. Anh làm gì thế ? Đừng ! Sao anh quên lời hứa ? Em sợ lắm. Đừng, anh ! - Có gì đâu mà sợ ? Tiếng nói kinh dị. Hơi thở lạ lùng. Một bàn tay thô kệch và hung hãn như chân của thú dữ. Tôi biết không phải anh tôi rồi. Tôi kêu thất thanh : Ông là ai ? Đồ vô loại ! Vú già ơi ! Cứu tôi, làng xóm ơi ! Anh Nam Đồng ơi Tôi tưởng tôi sắp chết. Tôi vẩy vùng để thoát vòng tay của tên võ phu. Tôi dùng răng, dùng móng tay để câu xé nhưng tên khốn nạn không buông tha. Một cái miệng nặc cả mùi rượu, thuốc lá và răng thối, chà trên má tôi. Nó muốn vật tôi lên giường, tôi nhào lăn xuống sàng đồ đạc bên cạnh giường đổ tung. Tôi nhớ đến cái đồng hồ reo, vờ lấy quăng vào con thú. Đồng hồ đập nát một cửa kính. Tôi muốn lao ra cửa sổ. Tay nó níu chặt tôi lại. Tôi cố la lên cầu cứu. Tôi sắp ngất xỉu.

Có tiếng chạy thình thịch bên ngoài. Cánh cửa bị đạp tung rất mạnh. Tay kẻ dữ đã thả tôi. Có tiếng thét lên, lúc đầu tôi không nhận ra tiếng của anh tôi. Mày làm gì trong nhà nầy ? Tiếng thét đầu tiên vang dội, tiếp đến là tiếng ẩu đả. Có những va chạm dữ dội của cây gổ trên thân hình, trên bàn ghế. Tôi không thể biết ai đang đánh ai, không biết ai chịu những đòn nặng. Tôi không có mắt để giúp anh tôi. Tôi sợ anh tôi bị tên võ phu giết chết. Tôi lần đến cửa sổ kêu vú già, kêu người giúp việc, kêu làng xóm. Hai người đã xô đẩy nhau ra khỏi phòng, rồi ra khỏi nhà. Những bước chạy thình thịch một chốc rồi tan dần. Có tiếng xe chạy.Một chốc yên lặng kinh hoàng. Tôi đã không còn kêu la được và cũng không thở mạnh được. Tôi lần ra khỏi phòng, không dám gọi, phập phồng trước điều không thể thấy và không thể đoán. Tôi không còn sức để đứng tựa nơi vách tường, tôi đã ngã quỵ xuống.

Nhưng anh tôi, chứ không phải kẻ võ phu, đã trở về và từ xa đã lên tiếng để yên lòng tôi. Anh xin lỗi em. Từ nay anh không để em một mình nữa. Anh ôm tôi, đở tôi dậy. Tôi đưa tay rờ nới má anh, một má ẩm ướt không biết vì mồ hôi hay máu, nước mắt hay nước mưa. Anh cúi đầu xuống và, lần đầu tiên, sau mấy năm quen biết và sống chung, tôi có cảm giác sung sướng lạ lùng khi môi tôi gặp được môi anh.

Phòng của tôi hư nát cả. Anh biểu tôi, trong khi chờ sửa lại cho xong, tôi qua ở tạm bên phòng anh. Nhưng trong ý tôi, không còn chữ tạm nữa. Chính tôi phá trước lời giao hẹn bao nhiêu dè dặt và lo ngại của tôi không thể còn nữa. Từ nay tôi sẽ mãi mãi với anh và của anh.

Phải chi chuyện đời tôi chấm dứt nơi đây. Phải chi thời gian dừng lại để cho hạnh phúc của tôi có trong mấy tháng sau đó, được kéo dài vĩnh viễn. Không. Hãy đem cho tôi tất cả những khăn tang trên đời để thắm cho hết nước mắt của tôi. Anh tôi không phải là chiến sĩ nhưng chiến tranh cũng tìm đến anh tôi. Trong lúc anh lái xe lên Cầu Đất. Anh đã đi sớm để về sớm, không để tôi một mình lâu , với vú già. Xe anh đã đạp phải mìn.

Không ai cho phép tôi động đến xác của anh. Tôi đoán chừng lý do là xác anh không còn toàn vẹn, cũng như chiếc xe của anh. Thứ bảy năm nào đó, mới năm nào đó, chiếc xe ấy, và anh ấy, đã đưa mẹ con tôi từ ga Cầu Bảo về. Có phải nước mắt tôi, linh nghiệm hơn bao nhiêu thứ thuốc tôi đã phải uống. Hay có lẽ nào nhờ những lời của Dì phước ở Bệnh viện Mắt hứa cầu xin cho tôi, với Thượng Đế của Dì ? Một buổi sáng mùa Xuân, trùng với mùa Phục Sinh, tôi ngạc nhiên thấy được điểm sáng nhỏ, điểm sáng lớn lần. Tôi hét lên một tiếng vui làm cho vú già tôi tưởng một thảm họa khác đã đến với tôi. Tôi thấy rồi. Tôi thấy rồi, vú ơi. Tôi chưa thấy rõ ràng vú. Nhưng điểm ánh sáng đưa cho tôi hy vọng bệnh lòa của tôi dần dần sẽ hết. Quả thật, mấy tuần sau nữa, tôi đã nhận ra những hình vật, khám phá khung cảnh tôi sống, tôi nhìn thấy được hình dáng và màu sắc của những hoa đào ngoài sân, nhìn thấy tất cả chi tiết phòng hạnh phúc ngắn ngủi của tôi nay phải mãi mãi vắng bóng chồng.

Ánh sáng đã trở lại với tôi, để thay anh, cho tôi khỏi sống dưới sự đe dọa thường xuyên của kẻ võ phu. Hôm ấy, tôi đã hỏi anh tôi có biết tên nào đã tấn công tôi. Anh đã trả lời một cách thãn nhiên : Em cần gì biết đến lai lịch của một thứ đê tiện. Nó không phải một, nó là nhiều, nó cả một loài, cả từng giống, căn cước của nó là võ lực, cưỡng bức, bạo tàn, sát nhân. Và hình bóng chúng cái nào cũng giống cái nào, biết được một, là biết tất cả. Vì chúng cùng chung một thái độ, một thứ hành vi thất đức. Chúng có từ khi tạo thiên lập địa và sẽ còn mãi mãi trên quả đất nầy. Thứ cặn bả của nhân loại ấy xuất hiện khi nào xã hội suy đồi, cũng như những vật và con thú bẩn trủi lên bờ biển khi nước sạch rút đi xa.

Với cặp mắt tìm lại được, tôi sẽ biết nhận dạng để đề phòng, để tự vệ. Nhưng anh ? Tôi tiếc đến khi thấy đươc cảnh, vật và người chung quanh tôi, tôi không còn có được mặt anh để chiêm ngắm, để nhìn cho tường tận, để đối chiếu với hình ảnh tôi chỉ có bấy lâu nay trong trí tưởng tượng. Tôi tìm mãi trong nhà một giấy tờ nào về anh đễ biết anh một cách đầy đủ hơn nữa. Tôi không biết tên thật anh là gì, Nam Đồng chỉ là một hiệu bán sách. Tôi không có được một tấm hình của anh để thờ phụng. Có lẽ anh không còn nghĩ đến việc chụp hình khi vợ mình đã mù lòa. Anh chân tình và thâm tình đến thế. Anh kín đáo đến nỗi chỉ xuất hiện và sống bên cạnh tôi khoảng thời gian tôi cần ánh sáng và sự che chở của anh mà thôi. Anh chết đi nhưng vẫn còn nói với tôi biết bao nhiêu điều. Anh không để lại hình ảnh nào, nhưng tôi đã thấy anh, thấy một phần khuôn mặt anh nơi bất cứ đâu có lời nói dịu hiền, nơi bất cứ đâu có hành vi đượm tình thương vô vụ lợi ngọt ngào. Anh. Anh người tôi yêu kính. Ngàn đời em sẽ nhớ anh.